Đình Làng Lục Giã (hay còn gọi là Đình làng Lục Xuân) thuộc thôn Lục Xuân, xã Võng Xuyên, huyện Phúc Thọ cũ nay là xã Phúc Lộc, Thành phố Hà Nội được xây dựng cách đây ngót 400 năm. Đình có kết cấu di tích cổ, được tọa lạc trên thế đất cao, đẹp trông về hướng Đông Nam, phía trước có sân đình, ao đình, xung quanh có nhiều cây cổ thụ tạo bầu không khí luôn tĩnh lặng, mát mẻ. Theo thuyết phong thủy, ngôi đình được làm trên thế đất cao là dương, phía trước có hồ nước là âm. Âm dương đối đãi thì vạn vật mới sinh sôi phát triển.
Đình thờ Đức Bạch Hạc Đại Vương làm Thành Hoàng làng. Các Ngài có công phò vua đánh giặc nên được vua ban thưởng và được 8 đạo sắc phong của các triều đại vua: 03 đạo sắc phong triều đại vua Thiệu Trị năm thứ 6; 02 đạo sắc phong triều đại vua Tự Đức năm thứ 3 và năm thứ 33; 01 đạo sắc phong triều đại vua Duy Tân năm thứ 3; 01 đạo sắc phong triều đại vua Khải Định năm thứ 9; 01 Bia đá triều đại vua Bảo Đại.
Một số hình ảnh đình Lục Giã ( Lục Xuân ) xã Phúc Lộc
Đình làng Lục Giã hạng mục đầu tiên là Nghi Môn, được xây dựng theo kiểu trụ biểu với một lối đi. Từ cổng vào qua một khoảng sân rộng lát gạch bát là đến Đại Bái. Đại Bái là một tòa nhà ngang, ba gian hai trái được được làm theo kiểu tường xây hồi bít đốc, tay ngai với hai mái chảy lợp ngói ri. Bờ nóc, bờ chảy đắp bờ đinh, hai đầu bờ nóc đắp hai đấu đinh, cuối bờ chảy xây giật cấp kiểu tay ngai bằng vôi vữa. Từ Đại Bái qua một khoảng sân lọng, hai bên là hai dãy Tả hữu mặc, mỗi bên là hai gian nhỏ, phía hậu xây bịt kín, mặt tiền để thông thoáng, đây là nơi soát lễ vật trước khi vào dâng thánh. Sân lọng hay còn gọi là giếng trời, về mặt kiến trúc đây là nơi để thiên nhiên giao hòa, thu nguồn sáng của mặt trời làm cho di tích cũng như các di vật được trường tồn mãi mãi. Bước qua bậc tam cấp là tới Hậu cung, được làm theo kiểu tiền đao hậu đốc với ba mái; phần đốc là: hai mái đao cong, đầu đao được đắp đầu rồng, đoạn gấp khúc đắp nghê chầu, giữa bờ nóc, mái đao đắp bức phù điêu bằng vôi vữa với tích tứ linh tạo nên vẻ mềm mại như để bớt phần nặng nền cho bộ mái, hai đầu bờ nóc đắp hai con rồng Makara ngậm bờ nóc. Vào bên trong tòa Hậu cung, bộ được chia làm hai phần, phần cung cấm và phần hiên được ngăn cách bằng hệ thống cửa ván mê, cửa giữa, được làm lửng, hai cửa bên được làm lối đi. Nhìn chung, trang trí trên kiến trúc gỗ tòa Hậu cung chạm rất tinh xảo, bài bản mang đậm phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
Từ lúc xây dựng sơ khai của buổi ban đầu tới nay, ngôi đình đã trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử. Sự hao mòn của thời gian nhưng với tấm lòng biết ơn thành kính của nhân dân các thế hệ con cháu và khách thập phương đã nhiều lần góp công, góp của để trùng tu, giữ gìn di tích như: năm Qúy Tỵ (1893), năm Bính Dần (1926) và gần đây nhất là năm Canh Dần (2010) được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân trong thôn cùng với khách thập phương đã hạ giải, trùng tu lại toàn bộ ngôi đình để có được vẻ đẹp bề thế, khang trang như hiện nay. Hiện Đình làng vẫn còn lưu giữ được những di vật quý có giá trị lịch sử như: Long ngai bài vị, kiệu long đình, hạc thờ... đều được nhân dân gìn giữ và bảo tồn.
Đình làng Lục Xuân không những có giá trị về văn hóa tâm linh mà còn gắn liền với những sự kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam. Trước năm 1945 Đình làng là trụ sở họp của cán bộ, nơi hoạt động của những cán bộ du kích. Năm 1965 Mỹ đánh phá ra miền Bắc đình làng là cơ sở sơ tán của các cơ quan, các Trường mẫu giáo Hà Nội; Trường Pháo binh ở Lục Quân; các tướng lãnh đạo cao cấp, các chuyên gia, chuyên viên nước bạn về ở và huấn luyện quân đội vào Miền Nam chiến đấu cho đến khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng thì Đình làng là Trường Đảng của Huyện.
Theo phong tục của làng Lục Xuân, hàng năm lễ hội được tổ chức tại Đình làng Lục Xuân vào 3 ngày, từ ngày 11 đến ngày 13 tháng giêng âm lịch, nhân dân trong làng tổ chức tế lễ với nhiều trò chơi dân gian và các hoạt động biểu diễn văn hóa - nghệ thuật, văn nghệ quần chúng.
Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử - văn hóa, Đình làng Lục Xuân đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh/Thành phố tại Quyết định số 1979/QĐ-UB ngày 14/11/2006 của UBND tỉnh Hà Tây cũ, nay là thành phố Hà Nội.
Nguồn, ảnh: Vân Anh.